Thuốc thiết yếu là gì? Các công bố khoa học về Thuốc thiết yếu

Thử nghiệm thiết yếu là những loại thuốc mà được coi là cần thiết trong quá trình nghiên cứu và phát triển mới, thường là trong lĩnh vực y học. Chúng thường phả...

Thử nghiệm thiết yếu là những loại thuốc mà được coi là cần thiết trong quá trình nghiên cứu và phát triển mới, thường là trong lĩnh vực y học. Chúng thường phải được kiểm tra độ an toàn và hiệu quả thông qua các thử nghiệm lâm sàng trước khi được phê duyệt và bán trên thị trường. Những thuốc thiết yếu có thể bao gồm thuốc chống ung thư, thuốc điều trị bệnh tim mạch, thuốc chống nhiễm trùng và nhiều loại thuốc khác có tác dụng quan trọng trong việc cải thiện sức khỏe và chữa trị bệnh.
Thuốc thiết yếu chi tiết hơn là nhóm các loại thuốc cần thiết và quan trọng để điều trị và chữa trị các bệnh và tình trạng sức khỏe nghiêm trọng. Những loại thuốc này thường có tác dụng quan trọng và không thể thay thế bằng các biện pháp khác như thuốc thay thế hoặc phương pháp điều trị không dùng thuốc.

Dưới đây là một số ví dụ về các loại thuốc thiết yếu:

1. Thuốc chống ung thư: Bao gồm các loại thuốc hóa trị, tác động tới các tế bào ung thư và ngăn chặn sự phát triển của chúng. Những thuốc này có thể bao gồm anthracyclin (như doxorubicin), platinum (như carboplatin), và kinase inhibitors như imatinib.

2. Thuốc điều trị bệnh tim mạch: Bao gồm thuốc chống nhồi máu (như aspirin), thuốc chống co thắt mạch (như nitrates), thuốc giảm cholesterol (như statin) và thuốc lợi tiểu (như diuretics).

3. Kháng sinh: Loại thuốc chống nhiễm trùng được sử dụng để tiêu diệt vi khuẩn hoặc ngăn chặn sự phát triển của chúng. Ví dụ: penicillin, ceftriaxone, và azithromycin.

4. Thuốc chống bệnh tật: Như thuốc chống vi-rút HIV (như antiretroviral), thuốc chống vi khuẩn đa kháng thuốc (như polymyxin B và colistin), và thuốc kháng nấm (như fluconazole).

5. Thuốc kháng dị ứng: Nếu bạn có dị ứng mạnh mẽ với một loại thuốc nào đó, thuốc này có thể được coi là thiết yếu trong trường hợp cần thiết để kiểm soát và điều trị phản ứng dị ứng nghiêm trọng gây ra bởi dược phẩm đó.

Các loại thuốc thiết yếu thường được đưa vào danh sách như "Danh sách các loại thuốc cần thiết" hoặc "Danh sách các loại thuốc thiết yếu" của một quốc gia, nơi mức độ quan trọng của các thuốc này được công nhận và cần được đảm bảo sẵn có để điều trị bệnh nhân ở cấp cứu hay các trường hợp cần thiết khẩn cấp khác.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thuốc thiết yếu":

Phân Tích Meta Về Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Niềm Tin Trong Tương Tác Người-Robot Dịch bởi AI
Human Factors - Tập 53 Số 5 - Trang 517-527 - 2011

Mục tiêu: Chúng tôi đánh giá và định lượng các tác động của yếu tố con người, robot và môi trường đến niềm tin cảm nhận trong tương tác người-robot (HRI).

Bối cảnh: Cho đến nay, các tổng quan về niềm tin trong HRI thường mang tính chất định tính hoặc mô tả. Nghiên cứu tổng quan định lượng của chúng tôi cung cấp cơ sở thực nghiệm nền tảng để thúc đẩy cả lý thuyết và thực hành.

Phương pháp: Phương pháp phân tích meta được áp dụng cho các tài liệu hiện có về niềm tin và HRI. Tổng cộng có 29 nghiên cứu thực nghiệm được thu thập, trong đó 10 nghiên cứu đạt tiêu chuẩn chọn lựa cho phân tích tương quan và 11 nghiên cứu cho phân tích thực nghiệm. Các nghiên cứu này cung cấp 69 kích thước hiệu ứng tương quan và 47 kích thước hiệu ứng thực nghiệm.

Kết quả: Kích thước hiệu ứng tương quan tổng thể cho niềm tin là r̄ = +0.26, với kích thước hiệu ứng thực nghiệm là d̄ = +0.71. Các tác động của đặc điểm con người, robot và môi trường đã được xem xét với sự đánh giá đặc biệt về các khía cạnh về hiệu suất và yếu tố thuộc tính của robot. Hiệu suất và các thuộc tính của robot là những yếu tố đóng góp lớn nhất vào sự phát triển niềm tin trong HRI. Các yếu tố môi trường chỉ đóng vai trò trung bình.

Kết luận: Các yếu tố liên quan đến bản thân robot, cụ thể là hiệu suất của nó, hiện có sự liên kết mạnh nhất với niềm tin, và các yếu tố môi trường chỉ có mối liên kết ở mức độ trung bình. Có rất ít bằng chứng cho thấy tác động của các yếu tố liên quan đến con người.

Ứng dụng: Các phát hiện cung cấp ước lượng định lượng của các yếu tố con người, robot và môi trường ảnh hưởng đến niềm tin HRI. Cụ thể, tóm tắt hiện tại cung cấp ước lượng kích thước hiệu ứng hữu ích trong việc thiết lập hướng dẫn thiết kế và đào tạo liên quan đến các yếu tố robot của niềm tin HRI. Hơn nữa, kết quả cho thấy rằng việc hiệu chỉnh không đúng niềm tin có thể được giảm thiểu bằng cách điều chỉnh thiết kế robot. Tuy nhiên, nhiều nhu cầu nghiên cứu trong tương lai đã được xác định.

#Tương tác người-robot; Tin cậy; Phân tích meta; Kích thước hiệu ứng; Yếu tố con người; Yếu tố robot; Yếu tố môi trường; Thiết kế robot; Hiệu suất robot; Niềm tin HRI.
Những nhận thức từ các bên liên quan đến dược phẩm về cách phân bổ ngân sách dược phẩm ở Nam Phi Dịch bởi AI
Informa UK Limited - - 2021
Tóm tắt Điều kiện nền tảng

Nam Phi đang phải đối mặt với gánh nặng bệnh tật nặng nề, ảnh hưởng đến việc phân bổ nguồn lực. Những nhu cầu của Nam Phi đòi hỏi phải chuyển đổi hiệu quả thành chi tiêu dược phẩm cho việc cung cấp thuốc, nhằm đảm bảo sự có sẵn của thuốc. Vì Nam Phi đang đối mặt với nhiều thách thức trong việc cung cấp thuốc đi kèm với chi tiêu dược phẩm gia tăng, nghiên cứu này nhằm báo cáo về các cân nhắc và phương pháp được sử dụng để xác định ngân sách chăm sóc sức khỏe cho Nam Phi, và cách mà ngân sách này được chuyển đổi thành chi tiêu dược phẩm cho việc cung cấp thuốc theo Hướng dẫn điều trị chuẩn và Danh sách thuốc thiết yếu, cũng như các thuốc không thiết yếu trong lĩnh vực công cộng.

Phương pháp

Những cuộc phỏng vấn định tính, bán cấu trúc được hướng dẫn bởi một bản thảo thảo luận đã được thực hiện với bảy cán bộ dược phẩm có liên quan đến quy trình ngân sách và phân bổ nguồn lực, từ tháng 10 năm 2019 đến tháng 3 năm 2020. Các cuộc phỏng vấn được ghi âm và chép lại nguyên văn. Sau khi các cuộc phỏng vấn được mã hóa bởi tác giả chính, chúng đã được xác minh bởi các tác giả khác. Dữ liệu đã được phân tích theo chủ đề.

Kết quả

Nghiên cứu này đã phác họa kiến thức và sự tham gia của dịch vụ dược phẩm trong quy trình ngân sách. Bộ Y tế Quốc gia và Tỉnh đã cải thiện ngân sách dược phẩm bằng cách tiến tới một cách tiếp cận hợp tác, thông tin và dựa trên bằng chứng hơn. Các dịch vụ dược phẩm có vai trò trong việc tư vấn về các yêu cầu; bình luận khi cần thiết, liên tục giám sát và chịu trách nhiệm về ngân sách của họ. Các cân nhắc chính định hình ngân sách bao gồm quy mô và tăng trưởng dân số, chi tiêu lịch sử, gánh nặng bệnh tật gia tăng và tỷ lệ mắc bệnh, dữ liệu nhu cầu và dự đoán. Ủy ban dược lý và điều trị tại địa phương và tỉnh cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát ngân sách và chi tiêu; đảm bảo tuân thủ các hướng dẫn; kiểm soát mức độ sử dụng các mục trong Danh sách thuốc không thiết yếu và tư vấn phù hợp.

#Ngân sách dược phẩm #Dịch vụ dược phẩm #Nam Phi #Hướng dẫn điều trị chuẩn #Danh sách thuốc thiết yếu.
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG PHÁT HIỆN, QUẢN LÝ ĐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP TẠI TRẠM Y TẾ XÃ, TỈNH CAO BẰNG, NĂM 2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 2 - 2022
Tăng huyết áp (THA) tại Việt Nam đang có xu hướng gia tăng và trẻ hóa, là nguyên nhân chính của bệnh tim mạch, tử vong sớm và gánh nặng bệnh tật. Nghiên cứu thực trạng hoạt động phát hiện và quản lý điều trị THA năm 2021 tại tỉnh Cao Bằng với mục tiêu mô tả thực trạng và phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động phát hiện và quản lý điều trị (QLĐT) THA tại TYT. Nghiên cứu được áp dụng phương pháp mô tả cắt ngang, thu thập số liệu bằng bộ câu hỏi tự điền tại 161 TYT, phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS.25 theo các chỉ số nghiên cứu. Kết quả, có 31% người trưởng thành đã được sàng lọc THA; TYT tổ chức các hình thức sàng lọc tại cộng đồng (19,8%), tổ chức chiến dịch (15,5%) và sàng lọc cơ hội đạt 90.1% TYT; Có 14,1% người THA được chẩn đoán, 6,9% được QLĐT và 4,2% đạt mục tiêu điều trị so với số mắc ước tính. Có 75,7% số TYT thực hiện QLĐT và 69,5% số TYT cấp thuốc dài ngày cho người bệnh THA; Cán bộ y tế được đào tạo QLĐT còn thấp, trung bình đạt 0,8 cán bộ/TYT; Chỉ có 27,3% TYT có đủ 2 nhóm và 3,1% TYT có đủ 3 nhóm thuốc thiết yếu điều trị THA.
#Sàng lọc #tăng huyết áp #quản lý điều trị #huyết áp mục tiêu #thuốc thiết yếu
Tính đáp ứng về hoạt chất-dạng bào chế của các thuốc được cấp số đăng ký với danh mục thuốc thiết yếu Việt Nam giai đoạn 2015-2019
Đặt vấn đề: Trong danh mục thuốc thiết yếu theo TT19/2018/TT-BYT, quy định thuốc thiết yếu luôn có hoạt chất đi kèm với dạng bào chế cụ thể. Nghiên cứu đánh giá tính đáp ứng hoạt chất - dạng bào chế (HC - DBC) của các thuốc đang lưu hành so với danh mục thuốc thiết yếu dựa trên các số đăng ký thuốc được cấp trong giai đoạn 2015-2019. Mục tiêu nghiên cứu: Phân tích tính đáp ứng về HC - DBC của các thuốc được cấp số đăng ký (SĐK) với danh mục thuốc thiết yếu tại Việt Nam giai đoạn 2015 –2019. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, hồi cứu dữ liệu cấp SĐK lưu hành của thuốc hóa dược, thuốc dược liệu, vắc xin và sinh phẩm. Kết quả: Có 4 trên 29 nhóm thuốc điều trị có số lượng HC-DBC có SĐK toàn giai đoạn đạt tỷ lệ 100%. Có tổng cộng 565 HC – DBC, mỗi HC – DBC trung bình có đến 19.59 SĐK. Số lượng HC - DBC của thuốc trong nước đáp ứng cao hơn thuốc nước ngoài. Hiện vẫn còn khoảng 311-339 HC-DBC không có SĐK, chiếm tỷ lệ cao nhất theo mức độ đăng ký. Paracetamol dạng viên là dạng HC – DBC có số lượng SĐK cao nhất trong giai đoạn 2015 -2019. Kết luận: Các thuốc đã đăng ký và đang lưu hành ở Việt Nam giai đoạn 2015 – 2019 đã phần nào đáp ứng về mặt HC – DBC đối với 29 nhóm dược lý trong danh mục thuốc thiết yếu.
#đăng ký thuốc #thuốc thiết yếu #số đăng ký #hoạt chất-dạng bào chế #Việt Nam
Khảo sát thực trạng đăng ký thuốc thiết yếu tại Việt nam giai đoạn 2019 – 2021
Đặt vấn đề: Thuốc thiết yếu đóng vai trò quan trọng trong công tác chăm sóc sức khỏe toàn dân nên tình trạng thiếu hụt thuốc thiết yếu đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng tại các quốc gia trên thế giới. Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát thực trạng thuốc thiết yếu được cấp số đăng ký (SĐK) tại Việt Nam, qua đó đánh giá mức độ đáp ứng của chúng trong việc chữa trị và phòng ngừa bệnh tật giai đoạn 2019-2021. Mục tiêu: Khảo sát thực trạng đăng ký thuốc với danh mục thuốc thiết yếu tại Việt Nam giai đoạn 2019 – 2021. Phương pháp: Mô tả cắt ngang, hồi cứu dữ liệu cấp số đăng ký lưu hành của thuốc hóa dược, thuốc dược liệu, vắc xin và sinh phẩm và đối sánh với danh mục thuốc thiết yếu giai đoạn 2019 – 2021. Kết quả: Phần lớn nhóm các nhóm điều trị có thuốc được cấp SĐK đều có số lượng giảm mạnh qua từng năm với số HC được cấp SĐK theo nhóm điều trị đáp ứng từ 55.1% (năm 2019) đến 36.8% (năm 2021) và tỷ lệ HC-DBC được cấp SĐK từ năm 2019 đến năm 2021 đáp ứng từ 40.7% còn 26.2% với danh mục thuốc thiết yếu. Số lượng HC và HC-DBC của thuốc có SĐK trong nước luôn cao hơn thuốc có SĐK nước ngoài nhưng cũng có xu hướng giảm trong cả giai đoạn nghiên cứu. Số lượng HC và HC-DBC không có SĐK chiếm tỷ trọng lớn (>50%) so với nhóm thuốc có 1-10 SĐK và nhóm có >10 SĐK. Kết luận: Mức độ đáp ứng của HC và HC-DBC với danh mục thuốc thiết yếu tại Việt Nam giảm qua từng năm trong cả giai đoạn 2019 – 2021.
#thuốc thiết yếu #đăng ký thuốc #số đăng ký #Việt Nam
Đối sánh danh mục hoạt chất của thuốc được cấp số đăng ký và thuốc thiết yếu Việt Nam giai đoạn 2015 - 2019
Đặt vấn đề: Với tầm quan trọng của thuốc thiết yếu đối với chăm sóc sức khỏe toàn dân và sự gia tăng số lượng số đăng ký (SĐK) thuốc tại Việt Nam, việc đối sánh danh mục hoạt chất (HC) của thuốc được cấp SĐK và thuốc thiết yếu là vô cùng cần thiết. Mục tiêu: Đối sánh danh mục HC của thuốc được cấp SĐK và thuốc thiết yếu tại Việt Nam giai đoạn 2015-2019. Phương pháp: Mô tả cắt ngang, hồi cứu dữ liệu cấp SĐK lưu hành của thuốc hóa dược, thuốc dược liệu, vắc xin và sinh phẩm giai đoạn 2015-2019 và so sánh với Danh mục thuốc thiết yếu do Bộ Y tế ban hành theo Thông tư 19/2018/TT-BYT. Kết quả: Có 6/29 nhóm thuốc điều trị đạt 100% hoạt chất có SĐK toàn giai đoạn nghiên cứu, các nhóm còn lại có tỷ lệ hoạt chất có SĐK dao động từ 37.5 - 91.7%. Số lượng SĐK bình quân trên HC có SĐK cao hơn ở thuốc trong nước (dao động từ 7.5 đến 9.8) so với thuốc nước ngoài (dao động từ 2.7 đến 4.0). Theo số lượng SĐK, có đến 103 HC không có SĐK (chiếm tỷ lệ 21.4%) trong khi 128 HC có trên 20 SĐK (chiếm tỷ lệ 26.6%). Kết luận: Các chính sách hỗ trợ nghiên cứu và sản xuất các HC chưa có SĐK cần được thúc đẩy nhằm đáp ứng danh mục thuốc thiết yếu tại Việt Nam.
#thuốc thiết yếu #đăng ký thuốc #số đăng ký #Việt Nam
Tổng số: 6   
  • 1